Tuyến tiền liệt là gì? Các công bố khoa học về Tuyến tiền liệt

Tuyến tiền liệt (hay còn gọi là ống tiền liệt) là một phần của hệ vi sinh sinh dục nam trong cơ thể. Tuyến tiền liệt nằm dưới bàng quang và bao quanh phần đầu ố...

Tuyến tiền liệt (hay còn gọi là ống tiền liệt) là một phần của hệ vi sinh sinh dục nam trong cơ thể. Tuyến tiền liệt nằm dưới bàng quang và bao quanh phần đầu ống dẫn tinh. Chức năng chính của tuyến tiền liệt là tạo ra chất lỏng tiền liệt, một thành phần quan trọng của tinh dịch. Ngoài ra, nó còn tham gia quá trình điều chỉnh pH trong tiết niệu và bảo vệ tinh trùng khỏi sự chết và tổn thương. Tuyến tiền liệt có thể bị ảnh hưởng bởi các vấn đề sức khỏe như viêm nhiễm hoặc ung thư.
Tuyến tiền liệt có kích thước nhỏ, hình dạng tròn và có màu trắng xám. Nó nằm dưới bàng quang và bao quanh phần đầu ống dẫn tinh. Tuyến tiền liệt được bao bọc bởi một lớp màng cơ và màng niêm mạc.

Chức năng chính của tuyến tiền liệt là tạo ra chất lỏng tiền liệt, được gọi là dịch tiền liệt. Dịch tiền liệt là một thành phần quan trọng của tinh dịch, chiếm khoảng 20-30% tổng thể lượng tinh dịch. Chất lỏng này cung cấp năng lượng cho tinh trùng và giúp duy trì độ pH thích hợp trong tiết niệu cho sự sống còn của tinh trùng. Ngoài ra, dịch tiền liệt còn chứa các chất chống oxy hóa, enzyme và các chất dinh dưỡng khác có vai trò bảo vệ tinh trùng khỏi sự chết và tổn thương.

Tuyến tiền liệt có thể bị ảnh hưởng bởi một số vấn đề sức khỏe. Một trong những vấn đề phổ biến là viêm tuyến tiền liệt, gây ra những triệu chứng như đau lưng, đau vùng chậu, đi tiểu đau, tiểu nhiều và tiểu khó khăn. Ngoài ra, tuyến tiền liệt cũng có thể bị mắc các bệnh lý khác như u xơ tuyến tiền liệt, viêm tuyến tiền liệt mãn cầu và ung thư tuyến tiền liệt. Để chẩn đoán và điều trị các vấn đề liên quan đến tuyến tiền liệt, việc thăm khám và tư vấn chuyên gia y tế là cần thiết.
Tuyến tiền liệt có cấu trúc phức tạp, bao gồm các khối u tuyến tiền liệt và các ống tiền liệt.

1. Khối u tuyến tiền liệt: Các khối u tuyến tiền liệt gồm có các tế bào tuyến tiền liệt và tế bào nang (epithelial cells). Các khối u tuyến tiền liệt có nhiều kích thước và hình dạng khác nhau. Chúng có nhiệm vụ tạo ra các chất tiền liệt như prostate-specific antigen (PSA), prostate-specific acid phosphatase (PSAP) và các enzyme khác.

2. Các ống tiền liệt: Tuyến tiền liệt có khoảng 30-50 ống tiền liệt, cũng được gọi là các ống dẫn tinh. Các ống tiền liệt bắt nguồn từ tận đầu các khối u tuyến tiền liệt và chạy qua tuyến tiền liệt, hướng tới phần sau của dương vật. Các ống tiền liệt chịu trách nhiệm vận chuyển và lưu trữ tinh dịch trong quá trình xuất tinh.

Ngoài chức năng chính tạo ra chất lỏng tiền liệt và tham gia quá trình xuất tinh, tuyến tiền liệt còn có vai trò trong sự điều chỉnh pH của tiết niệu. Sự thay đổi pH có thể ảnh hưởng đến vi lượng tinh trùng và khả năng thụ tinh. Tuyến tiền liệt cũng có chức năng bảo vệ tinh trùng khỏi các tác động bên ngoài và cung cấp chất dinh dưỡng cho chúng.

Tuyến tiền liệt có thể bị ảnh hưởng bởi các vấn đề sức khỏe như viêm nhiễm, u xơ, ung thư tuyến tiền liệt và tăng kích thước không phải do ung thư (tumor benign prostatic hyperplasia - BPH). Viêm nhiễm tuyến tiền liệt (prostatitis) là một vấn đề phổ biến, gây ra những triệu chứng như đau và khó chịu ở khu vực tiền liệt và xung quanh. Ung thư tuyến tiền liệt có thể gây ra các triệu chứng như khó tiểu, tiểu nhiều lần, mạch tiểu yếu và cảm giác buồn rầu trong khu vực tiền liệt và hậu môn.

Việc thăm khám định kỳ và tư vấn với bác sĩ là quan trọng để phát hiện sớm và điều trị các vấn đề liên quan tới tuyến tiền liệt.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "tuyến tiền liệt":

Xác định triển vọng các tế bào gốc gây ung thư tuyến tiền liệt Dịch bởi AI
Cancer Research - Tập 65 Số 23 - Trang 10946-10951 - 2005
Tóm tắt

Các liệu pháp hiện có cho ung thư tuyến tiền liệt tiêu diệt phần lớn các tế bào trong khối u. Tuy nhiên, hầu hết bệnh nhân sẽ phát triển thành bệnh không phụ thuộc androgen mà hiện tại chưa thể điều trị bằng các chiến lược điều trị hiện có. Hiện có ngày càng nhiều bằng chứng ở một số loại ác tính rằng các tế bào khối u được tổ chức theo một hệ thống phân cấp xuất phát từ những tế bào gốc hiếm hoi có trách nhiệm duy trì khối u. Chúng tôi báo cáo ở đây việc xác định và đặc trưng hóa một quần thể tế bào gốc ung thư từ các khối u tuyến tiền liệt ở người, những tế bào này sở hữu khả năng tự tái sinh đáng kể. Những tế bào này cũng có khả năng tái tạo các quần thể tế bào không clonogen với đặc điểm phân loại khác nhau, như receptor androgen và phosphatase acid tuyến tiền liệt. Các tế bào gốc ung thư có kiểu hình CD44+/α2β1hi/CD133+, và chúng tôi đã khai thác các dấu hiệu này để phân lập các tế bào từ một loạt các khối u tuyến tiền liệt với các mức độ Gleason và trạng thái di căn khác nhau. Khoảng 0.1% tế bào trong bất kỳ khối u nào biểu hiện kiểu hình này, và không có sự tương quan giữa số lượng tế bào CD44+/α2β1hi/CD133+ và độ ác tính của khối u. Việc xác định một loại tế bào gốc ung thư tuyến tiền liệt cung cấp một công cụ mạnh mẽ để điều tra quá trình hình thành khối u và phát triển các liệu pháp nhắm vào tế bào gốc.

Tăng biểu hiện và tuyển mộ HDAC1 vào nhân tế bào trong ung thư tuyến tiền liệt kháng hormoon Dịch bởi AI
Prostate - Tập 59 Số 2 - Trang 177-189 - 2004
Tóm tắtĐỀ CƯƠNG

Histone deacetylase 1 (HDAC1) là một co-ức chế có vai trò trong việc điều chỉnh quá trình phân hóa và tăng trưởng tế bào. HDAC1 được điều chỉnh tăng lên trong các mô ác tính so với mô lành tính, và nhắm đến một số yếu tố phiên mã bao gồm cả p53.

PHƯƠNG PHÁP

Bằng phương pháp nhuộm miễn dịch mô học, sự biểu hiện protein HDAC1 đã được nghiên cứu trong các mẫu mô tuyến tiền liệt của người và mô hình xenograft chuột CWR22. Cũng đã tiến hành phân tích bằng dòng tế bào và huỳnh quang phân giải.

KẾT QUẢ

HDAC1 đã được điều chỉnh tăng trong các tổn thương tiền ác tính và ác tính, với mức tăng biểu hiện cao nhất trong các loại ung thư kháng hormoon (HR). Sử dụng mô hình xenograft CWR22, chúng tôi đã chỉ ra rằng điều chỉnh HDAC1 phụ thuộc vào androgen. Sự biểu hiện quá mức của HDAC1 dẫn đến tăng trưởng tế bào đáng kể và sự chuyển hướng về kiểu biểu hiện cytokeratin (CK) không phân hóa trong một dòng clone PC3M liên tục biểu hiện HDAC1.

KẾT LUẬN

Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của HDAC1 trong quá trình phân chia tế bào và sự phát triển của ung thư tuyến tiền liệt (CaP) và đề xuất một cơ chế cho việc tuyển mộ HDAC1 vào nhân tế bào. HDAC1 có thể là một mục tiêu điều trị quan trọng, đặc biệt trong giai đoạn độc hại nhất của tình trạng độc lập với androgen. © 2004 Wiley‐Liss, Inc.

Kết hợp hệ thống ghi nhận và dữ liệu hình ảnh tuyến tiền liệt (PI-RADS) và mật độ kháng nguyên tuyến tiền liệt đặc hiệu (PSA) để dự đoán kết quả sinh thiết ở bệnh nhân chưa từng sinh thiết Dịch bởi AI
BJU International - Tập 119 Số 2 - Trang 225-233 - 2017
Mục tiêu

Đánh giá giá trị của hệ thống điểm Prostate Imaging Reporting and Data System (PI-RADS) cho khảo sát hình ảnh cộng hưởng từ đa thông số (mpMRI) tuyến tiền liệt nhằm phát hiện ung thư tuyến tiền liệt, và các thông số cổ điển như mức độ kháng nguyên tuyến tiền liệt đặc hiệu (PSA), thể tích tuyến tiền liệt và mật độ PSA, để dự đoán kết quả sinh thiết ở bệnh nhân nghi ngờ ung thư tuyến tiền liệt chưa từng sinh thiết.

Bệnh nhân và phương pháp

Phân tích hồi cứu các bệnh nhân thực hiện mpMRI tại bệnh viện chúng tôi và sinh thiết tuyến tiền liệt lần đầu từ tháng 7/2010 đến tháng 4/2014. Sinh thiết tuyến tiền liệt được thực hiện qua ngã tầng sinh môn dưới hướng dẫn siêu âm qua trực tràng. Tổng cộng, 14 mẫu sinh thiết được lấy một cách hệ thống ở tất cả các bệnh nhân. Thêm hai mẫu sinh thiết mục tiêu bằng cách hợp nhất nhận thức được thêm vào mỗi tổn thương ở bệnh nhân có tổn thương nghi ngờ hoặc không rõ ràng trên mpMRI. Sử dụng hệ thống điểm PI-RADS phiên bản 2.0 để mô tả các phát hiện trên MRI. Phân tích đơn biến và đa biến được thực hiện để xác định các yếu tố dự đoán có ý nghĩa của ung thư tuyến tiền liệt và ung thư tuyến tiền liệt lâm sàng có ý nghĩa.

Kết quả

Tổng cộng, 288 bệnh nhân được phân tích. Tuổi trung vị của bệnh nhân, mức độ PSA, thể tích tuyến tiền liệt và mật độ PSA lần lượt là 69 tuổi, 7,5 ng/mL, 28,7 mL, và 0,26 ng/mL/mL. Kết quả sinh thiết cho thấy các dạng lành tính, ung thư không quan trọng về mặt lâm sàng, và ung thư quan trọng về mặt lâm sàng tương ứng với 129 (45%), 18 (6%) và 141 (49%) bệnh nhân. Phân tích đa biến cho thấy điểm số PI-RADS v2 và mật độ PSA là những yếu tố dự đoán độc lập cho ung thư tuyến tiền liệt và ung thư tuyến tiền liệt có ý nghĩa lâm sàng. Khi kết hợp điểm số PI-RADS v2 và mật độ PSA, điểm số PI-RADS v2 từ 4 trở lên và mật độ PSA từ 0.15 ng/mL/mL hoặc điểm số PI-RADS v2 là 3 và mật độ PSA từ 0.30 ng/mL/mL liên quan đến tỷ lệ phát hiện ung thư tuyến tiền liệt có ý nghĩa lâm sàng cao nhất (76–97%) trong lần sinh thiết đầu tiên. Trong nhóm bệnh nhân này có kết quả sinh thiết âm tính, 22% sau đó được chẩn đoán là ung thư tuyến tiền liệt. Ngược lại, điểm số PI-RADS v2 từ 3 trở xuống và mật độ PSA dưới 0.15 ng/mL/mL cho kết quả không có ung thư tuyến tiền liệt có ý nghĩa lâm sàng và không có thêm phát hiện ung thư tuyến tiền liệt trong các sinh thiết tiếp theo.

Kết luận

Sự kết hợp của điểm số PI-RADS v2 và mật độ PSA có thể giúp trong quá trình ra quyết định trước sinh thiết tuyến tiền liệt và trong chiến lược theo dõi ở bệnh nhân chưa từng sinh thiết. Bệnh nhân có điểm số PI-RADS v2 từ 3 trở xuống và mật độ PSA dưới 0.15 ng/mL/mL có thể tránh các sinh thiết không cần thiết.

#PI-RADS #PSA density #prostate cancer #biopsy #MRI #predictive model
Ức chế trục tín hiệu CXCR4/CXCL12 bởi axit ursolic dẫn đến ức chế di căn ở mô hình u tuyến tiền liệt chuyển gen của chuột Dịch bởi AI
International Journal of Cancer - Tập 129 Số 7 - Trang 1552-1563 - 2011
Tóm tắt

Các bằng chứng ngày càng tăng khẳng định rằng trục tín hiệu CXCR4/CXCL12 đóng vai trò then chốt trong quá trình di căn tới các vị trí xa, chiếm hơn 90% các ca tử vong liên quan đến ung thư tuyến tiền liệt ở bệnh nhân. Do đó, các loại thuốc mới có khả năng giảm điều hòa trục CXCR4/CXCL12 có tiềm năng lớn trong việc điều trị ung thư tuyến tiền liệt di căn. Trong báo cáo này, chúng tôi đã thử nghiệm một tác nhân, axit ursolic (UA), về khả năng điều chỉnh biểu hiện CXCR4 trên các dòng tế bào ung thư tuyến tiền liệt và ức chế di căn in vivo trên mô hình u tuyến tiền liệt chuyển gen của chuột (TRAMP). Chúng tôi nhận thấy rằng UA đã giảm điều hòa biểu hiện CXCR4 trên các tế bào ung thư tuyến tiền liệt bất kể tình trạng HER2 của chúng trong cách phụ thuộc liều lượng và thời gian. Không có chất ức chế proteasome nào hoặc sự ổn định lysosomal có tác động đến sự giảm biểu hiện CXCR4 do UA gây ra. Khi khảo sát về các cơ chế phân tử, người ta thấy rằng sự giảm điều hòa CXCR4 là do sự điều hòa phiên mã như được chỉ ra qua việc giảm điều hòa biểu hiện mRNA, ức chế kích hoạt NF-κB và điều chỉnh hoạt động miễn dịch tiền kết dính cromatin. Sự ức chế biểu hiện CXCR4 bởi UA còn liên quan đến việc ức chế sự di chuyển và xâm lấn do CXCL12 gây ra trên các tế bào ung thư tuyến tiền liệt. Cuối cùng, chúng tôi cũng nhận thấy rằng điều trị bằng UA có thể ức chế di căn của ung thư tuyến tiền liệt đến các cơ quan xa, bao gồm phổi và gan và giảm biểu hiện CXCR4 trong các mô tuyến tiền liệt của chuột TRAMP. Tổng thể, các kết quả thực nghiệm của chúng tôi cho thấy rằng UA thể hiện tác dụng chống di căn thông qua việc ức chế biểu hiện CXCR4 trong ung thư tuyến tiền liệt cả in vitroin vivo.

#CXCR4 #CXCL12 #axit ursolic #ung thư tuyến tiền liệt #TRAMP #di căn #ức chế phiên mã #HER2 #NF-κB #phiên mã #miễn dịch tiền kết dính cromatin #in vivo #in vitro
Hình ảnh trực tiếp củaPropionibacterium acnestrong mô tuyến tiền liệt bằng phân tích lai tại chỗ huỳnh quang đa màu Dịch bởi AI
Journal of Clinical Microbiology - Tập 45 Số 11 - Trang 3721-3728 - 2007
TÓM TẮT

Các mô tuyến tiền liệt từ những bệnh nhân bị ung thư tuyến tiền liệt và tăng sản tuyến tiền liệt lành tính (BPH) thường có khả năng viêm mô học, và một tỷ lệ trong số các bệnh nhân này có bằng chứng nhiễmPropionibacterium acnestrong tuyến tiền liệt. Chúng tôi đã phát triển một phương pháp phân tích lai tại chỗ huỳnh quang đa màu (FISH) nhắm mục tiêu đếnP. acnes23S rRNA cùng với vùng 14-kb của bộ genP. acnes. Phương pháp này được sử dụng để phân tích các mô tuyến tiền liệt từ bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt và BPH. Nhiễm trùngP. acnescủa tuyến tiền liệt được chứng minh trong mô tiền liệt ở 5 trên 10 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt được chọn ngẫu nhiên. Phân tích FISH và hình ảnh từ kính hiển vi laser đồng tiêu cho thấy sự định vị nội bào và sự xuất hiện của tập hợp giống màng sinh học trong mô tuyến tiền liệt từ cả bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt và BPH. Phân tích tuần tự mô tuyến tiền liệt từ từng bệnh nhân cho thấyP. acnescó thể tồn tại tới 6 năm trong tuyến tiền liệt. Những kết quả này chỉ ra rằngP. acnescó thể thiết lập một tình trạng nhiễm trùng lâu dài trong tuyến tiền liệt. Cần có nghiên cứu thêm để làm rõ mối liên hệ giữa vi khuẩn này và tình trạng viêm tuyến tiền liệt có thể góp phần phát triển BPH và ung thư tuyến tiền liệt.

#Propionibacterium acnes #ung thư tuyến tiền liệt #tăng sản tuyến tiền liệt lành tính #phân tích lai tại chỗ huỳnh quang #viêm tố tuyến #vi khuẩn học #màng sinh học #định vị nội bào #nghiên cứu lâu dài
Xác thực tiền lâm sàng của các kháng thể liên hợp anti-TMEFF2-auristatin E trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt Dịch bởi AI
Molecular Cancer Therapeutics - Tập 3 Số 8 - Trang 921-932 - 2004
Tóm tắt

Các phương pháp điều trị hiện tại cho ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn muộn, kháng hormone hầu như không hiệu quả, dẫn đến tỷ lệ tử vong và bệnh tật cao ở bệnh nhân. Để đáp ứng nhu cầu y tế chưa được thỏa mãn này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp phân tích biểu hiện gen toàn cầu để xác định các mục tiêu kháng thể-drug conjugate (ADC) tiềm năng mới cho thấy biểu hiện cụ thể cho ung thư tuyến tiền liệt cao nhất. TMEFF2, một gen mã hóa một protein màng tế bào có hai miền giống follistatin và một miền giống yếu tố tăng trưởng biểu bì, có sự phân bố mô bình thường hạn chế và được biểu hiện quá mức trong ung thư tuyến tiền liệt. Phân tích miễn dịch hóa học sử dụng một kháng thể đơn dòng (mAb) đặc hiệu với TMEFF2 của người cho thấy protein biểu hiện đáng kể ở 74% các khối u tuyến tiền liệt nguyên phát và 42% các tổn thương di căn từ các hạch bạch huyết và xương, đại diện cho bệnh kháng hormone và hormone-naïve. Để đánh giá các mAb anti-TMEFF2 như là các ADC tiềm năng, một mAb đã được liên hợp với tác nhân độc tế bào auristatin E thông qua một liên kết valine-citrulline nhạy cảm với cathepsin B. ADC này, Pr1-vcMMAE, được sử dụng để điều trị chuột male thiếu hụt miễn dịch ghép tế bào mang ung thư tuyến tiền liệt LNCaP và CWR22 biểu hiện TMEFF2. Liều lượng từ 3 đến 10 mg/kg của ADC đặc hiệu này đã dẫn đến ức chế tăng trưởng khối u đáng kể và kéo dài, trong khi một ADC kiểm soát đồng dạng không có tác động đáng kể. Efficacy và tính đặc hiệu tương tự cũng được thể hiện với huPr1-vcMMAE, một ADC anti-TMEFF2 được nhân hóa. Không có độc tính rõ ràng nào được quan sát trong vivo với cả hai ADC chuột hoặc người, mặc dù có sự phản ứng chéo đáng kể của mAb anti-TMEFF2 với protein TMEFF2 của chuột, điều này cho thấy độc tính tối thiểu đối với các mô cơ thể khác. Những dữ liệu này hỗ trợ việc đánh giá thêm và thử nghiệm lâm sàng của huPr1-vcMMAE như một liệu pháp mới cho điều trị ung thư tuyến tiền liệt di căn và kháng hormone.

Thụ Thể Andrgenic và VEGF: Cơ Chế Điều Hòa Angiogenesis Bởi Andrgen Trong Ung Thư Tuyến Tiền Liệt Dịch bởi AI
Cancers - Tập 9 Số 4 - Trang 32

Sự tiến triển của ung thư tuyến tiền liệt được kiểm soát bởi thụ thể androgen và sự hình thành mạch máu mới, hoặc angiogenesis, điều này thúc đẩy sự phát triển của ung thư tuyến tiền liệt di căn. Angiogenesis được kích thích bởi sự gia tăng biểu hiện của yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF). VEGF bị điều hòa bởi nhiều yếu tố trong môi trường vi mô của khối u, bao gồm mức oxy thấp và nồng độ androgen cao. Ở đây, chúng tôi xem xét bằng chứng mô tả các cơ chế điều hòa VEGF qua hormone, bao gồm các tương tác mới giữa thụ thể androgen (AR), các yếu tố phiên mã epigenetic và zinc-finger, các biến thể AR và yếu tố thiếu oxy, HIF-1. Ý nghĩa của việc mô tả tác động của cả hormone và thiếu oxy lên biểu hiện VEGF và angiogenesis được tiết lộ trong các báo cáo gần đây về các liệu pháp lâm sàng nhắm mục tiêu vào cả con đường tín hiệu VEGF và AR. Việc hiểu rõ hơn về những phức tạp của biểu hiện VEGF có thể dẫn đến việc nhắm mục tiêu tốt hơn và kéo dài thời gian sống cho một nhóm bệnh nhân mắc ung thư tuyến tiền liệt kháng hormone di căn.

#ung thư tuyến tiền liệt #thụ thể androgen #VEGF #angiogenesis #HIF-1 #yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu
Liệu pháp estrogen và chức năng gan—các tác động chuyển hóa của việc sử dụng đường uống và đường tiêm Dịch bởi AI
Prostate - Tập 14 Số 4 - Trang 389-395 - 1989
Tóm tắt

Liệu pháp estrogen đường uống cho bệnh ung thư tuyến tiền liệt có hiệu quả lâm sàng nhưng cũng đi kèm với các tác dụng phụ tim mạch nghiêm trọng. Tăng huyết áp, thuyên tắc tĩnh mạch và các rối loạn tim mạch khác liên quan đến những thay đổi trong chuyển hóa gan. Tác động của estrogen ngoại sinh lên gan tùy thuộc vào đường dùng và loại cũng như liều lượng estrogen. Việc sử dụng estrogen tổng hợp qua đường uống có ảnh hưởng sâu sắc đến các protein huyết tương do gan sản xuất, các yếu tố đông máu, lipoprotein, và triglyceride, trong khi việc tiêm estradiol tự nhiên chỉ có ảnh hưởng rất ít đến các khía cạnh này của chức năng gan.

#estrogen #liệu pháp đường uống #chức năng gan #tác dụng phụ tim mạch #ung thư tuyến tiền liệt #estrogen tổng hợp #estradiol tự nhiên
Chất đối kháng LHRH Cetrorelix giảm kích thước tuyến tiền liệt và biểu hiện gen của các cytokine proinflammatory cùng yếu tố tăng trưởng trong mô hình chuột rat của phì đại tuyến tiền liệt lành tính Dịch bởi AI
Prostate - Tập 71 Số 7 - Trang 736-747 - 2011
Tóm tắtBỐI CẢNH

Các phát hiện gần đây cho thấy rằng phì đại tuyến tiền liệt lành tính (BPH) có một thành phần viêm. Các thử nghiệm lâm sàng đã ghi nhận rằng liệu pháp với chất đối kháng LHRH Cetrorelix gây ra sự cải thiện đáng kể và kéo dài về triệu chứng đường tiểu dưới (LUTS) ở nam giới có BPH triệu chứng. Chúng tôi đã điều tra cơ chế tác động và hiệu quả của Cetrorelix trong mô hình chuột rat BPH.

PHƯƠNG PHÁP

Các con chuột Wistar đực trưởng thành đã được sử dụng. BPH được gây ra ở chuột bằng cách tiêm dưới da TE 2 mg/ngày trong 4 tuần. Các động vật kiểm soát nhận tiêm dầu ngô. Sau khi gây BPH, chuột nhận Cetrorelix pamoate dạng depot với các liều 0.625, 1.25 và 12.5 mg/kg vào ngày 1 và 22, trong khi chuột TE-kiểm soát nhận tiêm dung dịch. Toàn bộ tuyến tiền liệt được cân và xử lý để phân tích RNA và protein. Các xét nghiệm RT-PCR thời gian thực cho nhiều cytokine viêm và yếu tố tăng trưởng đã được thực hiện. Các phân tích định lượng của thụ thể LHRH tuyến tiền liệt, LHRH, thụ thể androgen (AR) và 5α-reductase 2 được thực hiện bằng RT-PCR thời gian thực và phương pháp blot miễn dịch; DHT huyết thanh, LH, PSA, và IGF-1 được xác định bằng phương pháp xét nghiệm miễn dịch.

KẾT QUẢ

Các mức mRNA cho các cytokine viêm IFN-γ, IL-3, IL-4, IL-5, IL-6, IL-8, IL-13, IL-15, và IL-17 cũng như các yếu tố tăng trưởng EGF, FGF-2, FGF-7, FGF-8, FGF-14, TGF-β1, và VEGF-A đã giảm đáng kể dưới tác động của Cetrorelix 0.625 mg/kg (P < 0.05). Trọng lượng tuyến tiền liệt cũng giảm đáng kể với bất kỳ liều Cetrorelix nào.

KẾLUẬN

Nghiên cứu này gợi ý rằng Cetrorelix giảm các cytokine viêm và yếu tố tăng trưởng trong tuyến tiền liệt chuột và, ở các liều không gây mức độ castration của testosterone, có thể làm giảm trọng lượng tuyến tiền liệt. Những phát hiện của chúng tôi làm sáng tỏ cơ chế tác động của các chất đối kháng LHRH trong BPH. Prostate 71:736–747, 2011. © 2010 Wiley-Liss, Inc.

Suy thận cấp thứ phát do điều trị Imatinib Mesylate ở bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt Dịch bởi AI
Annals of Pharmacotherapy - Tập 39 Số 12 - Trang 2136-2138 - 2005
MỤC TIÊU

Báo cáo một trường hợp suy thận cấp kết hợp với việc sử dụng imatinib mesylate.

TÓM TẮT TRƯỜNG HỢP

Một bệnh nhân nam 64 tuổi được chẩn đoán mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt đã tham gia vào một thử nghiệm giai đoạn I với imatinib mesylate kết hợp với taxotere theo một quy trình yêu cầu thời gian dùng thử imatinib mesylate đơn độc. Trong quá trình điều trị bằng imatinib mesylate, bệnh nhân đã phát triển suy thận cấp, cần phải chạy thận nhân tạo. Một cuộc sinh thiết thận đã chỉ ra sự vacuol hóa ống thận. Tình trạng suy thận đã được cải thiện khi ngừng imatinib mesylate.

THẢO LUẬN

Imatinib mesylate là một chất ức chế protein tyrosine kinase, có khả năng ức chế tyrosine kinase BCR-ABL, các tyrosine kinase thụ thể cho yếu tố tăng trưởng có nguồn gốc tiểu cầu và yếu tố tế bào gốc c-kit. Ung thư tuyến tiền liệt đã được xác định là một mục tiêu cho liệu pháp với imatinib mesylate. Bệnh nhân này không có các yếu tố gây nhiễu khác dẫn đến suy thận. Một đánh giá khách quan về nguyên nhân đã xác định rằng imatinib mesylate là nguyên nhân có khả năng gây ra suy thận cấp. Sự hiện diện của một bệnh lý cầu thận chính đã được loại trừ bằng sinh thiết.

KẾT LUẬN

Suy thận cấp do imatinib mesylate đã được ghi nhận là có liên quan đến tác động độc hại lên tế bào ống thận trong 3 trường hợp. Chức năng thận nên được theo dõi chặt chẽ trong quá trình điều trị bằng imatinib mesylate.

Tổng số: 187   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10